Binh lực các bên tham chiến Chiến_dịch_Đường_14_-_Phước_Long

Bản đồ hành chính Miền Nam Việt Nam trước năm 1975, Phước Long nằm tiếp giáp với Bình Long, Quảng Đức, Long Khánh, Lâm Đồng và Campuchia

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam

Các đơn vị chiến đấu

Nhiệm vụ mở trận đánh tại Phước Long được Bộ Tổng tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giao cho Quân đoàn 4 (của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) do Thiếu tướng Hoàng Cầm làm tư lệnh kiêm chính ủy. Đây cũng là trận đánh lớn đầu tiên của đơn vị này từ ngày thành lập (20 tháng 7 năm 1974). Để chuẩn bị tác chiến tại khu vực Phước Long, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 đã rút ra từ các sư đoàn và trung đoàn trực thuộc một lực lượng xung kích mạnh gồm có:

  • Sư đoàn 3 (sau này là sư đoàn 302) chỉ có hai trung đoàn (271 và 201) được phối thuộc trung đoàn 165 (sư đoàn 7) là đơn vị chủ công của đợt 1, được tăng cường một đại đội xe tăng T-59 và 1 đại đội pháo hỗn hợp 105 mm và 85 mm, một tiểu đoàn súng máy phòng không 14,5 mm và 12,7 mm.
  • Sư đoàn 7 bộ binh (chỉ còn hai trung đoàn 141 và 209) được phối thuộc trung đoàn 2 (sư đoàn 9) là lực lượng chủ công đợt 2. Các đơn vị này được tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng gồm 14 chiếc, trung đoàn 210 pháo binh hỗn hợp các loại pháo 105 mm, 122 mm, 85 mm và súng cối các cỡ 120 mm, 160 mm; 1 tiểu đoàn phòng không hỗn hợp pháo cao xạ 37 mm và súng máy phòng không 14,5 mm.
  • Trung đoàn 429 đặc công;
  • Trung đoàn công binh 25;
  • Các đoàn hậu cần 210 và 235 (tương đương trung đoàn).
  • Sư đoàn 9 bộ binh gồm 3 trung đoàn bộ binh 1, 2 và 16.[8]

Phương án tác chiến

Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 dự kiến trận đánh sẽ diễn ra theo 2 giai đoạn:

  • Giai đoạn 1: tấn công đánh chiếm các cứ điểm phòng ngự vòng ngoài của QLVNCH xung quanh Phước Long gồm: Chi khu quân sự Bù Đăng, cứ điểm Bù Na, quận lỵ Bố Đức, chi khu quân sự Đức Phong, chi khu quân sự Đôn Luân (Đồng Xoài cũ); kiềm chế căn cứ quan sát của pháo binh tại núi Bà Rá.
  • Giai đoạn 2: đánh thẳng vào thị xã Phước Long, chi khu quân sự Phước Bình, và căn cứ Bà Rá, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long.[8]

Trong cả hai giai đoạn của trận đánh, các đơn vị vòng ngoài tổ chức cắt đứt các đường giao thông đến Phước Long: đường số 14, liên tỉnh lộ 1, liên tỉnh lộ 12, đường 311 và đường số 2 (cũ), tổ chức các trận địa phục kích ngăn chặn các lực lượng của các sư đoàn 5, 25 và 18 của QLVNCH kéo đến ứng cứu cho Phước Long. Các đơn vị khác thuộc Bộ tư lệnh Miền tổ chức các trận đánh phối hợp để kìm giữ các đơn vị chủ lực của Quân đoàn III - QLVNCH tại các căn cứ, cản trở tối đa, không cho các đơn vị này rảnh rỗi để ứng cứu cho Phước Long.[9]

Với hai lý do: 1) để tiết kiệm đạn (đặc biệt là đạn pháo) sẽ dành cho các chiến dịch lớn hơn trong năm 1975, 2) vừa đánh vừa thăm dò phản ứng của đối phương để kịp thời ứng phó, Tổng Quân ủy yêu cầu B2 không được sử dụng pháo lớn (130 mm) và xe tăng trong đợt 1. Vì vậy, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 phải điều chỉnh lại kế hoạch: chuyển mục tiêu Đồng Xoài từ hướng chủ yếu thành hướng thứ yếu, hành động tác chiến chủ yếu là kiềm chế, bao vây đối phương. Hướng tấn công chủ yếu của giai đoạn 1 được nhằm vào Chi khu quân sự Bù Đăng. Không gian chiến dịch trong giai đoạn 1 được thu hẹp.[9] Theo trung tướng Hoàng Văn Thái, lý do là Bù Đăng và Bù Na là những căn cứ nhỏ, dễ công kích hơn và lại có khả năng thu được nhiều đạn pháo và pháo lớn để tiếp tục đánh Đồng Xoài (Đôn Luân).[10]

Loạt bài
Chiến tranh Việt Nam
Giai đoạn 1954–1959
Thuyết domino
Hoa Kỳ can thiệp
Miền Bắc – Miền Nam
Giai đoạn 1960–1965
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam
Kế hoạch Staley-Taylor
Chiến tranh đặc biệt
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm
Giai đoạn 1965–1968
Miền Bắc

Chiến dịch:
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Mũi Tên Xuyên –Sấm Rền

Miền Nam

Chiến tranh cục bộ
Chiến dịch:
Các chiến dịch Tìm-Diệt
Phượng Hoàng –Tết Mậu Thân, 1968

Diễn biến Quốc tế
Giai đoạn 1968–1972
Diễn biến Quốc tế
Việt Nam hóa chiến tranh
Hội nghị Paris
Hiệp định Paris
Chiến dịch:
Lam Sơn 719 – Chiến cục năm 1972 –
Hè 1972 –Mặt trận phòng không 1972 
Phòng không Hà Nội 12 ngày đêm
Giai đoạn 1973–1975
Hội nghị La Celle Saint Cloud
Chiến dịch:
Xuân 1975
Phước Long
Tây Nguyên  -Huế - Đà Nẵng
Phan Rang - Xuân Lộc
Hồ Chí Minh
Trường Sa và các đảo trên Biển Đông
Sự kiện 30 tháng 4, 1975
Hậu quả chiến tranh
Tổn thất nhân mạng
Tội ác của Hoa Kỳ và đồng minh
Chất độc da cam
tiêu bản

Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Tại tiểu khu Phước Long

Khu phòng thủ Phước Long thực chất là tiền đồn phía Bắc trong tuyến phòng thủ miền Đông Nam Bộ của Quân đoàn III - Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhưng do vị trí nằm ở tuyến tiếp giáp giữa Quân khu II với Quân khu III và cách xa các trung tâm tác chiến quan trọng (Sài Gòn-Gia Định-Biên Hòa-Bến Cát-Chơn Thành) nên Quân lực Việt Nam Cộng hòa chỉ bố trí ở tiểu khu Phước Long 5 tiểu đoàn bảo an và 48 trung đội dân vệ. Trong đó: Các tiểu đoàn 341 và 352 giữ Đồng Xoài và kiểm soát đoạn đường 14 từ Đồng Xoài đến cầu số 12; tiểu đoàn 363 giữ Bù Na và kiểm soát đường 14 từ cầu 11 đến ngã ba Liễu Đức; tiểu đoàn 362 giữ Vĩnh Thuận và kiểm soát đường 1 từ ngã ba Liễu Đức đến Bù Đăng; tiểu đoàn 340 là lực lượng dự bị cơ động đóng trong thị xã Phước Long. Tiểu khu Phước Long cũng có một tiểu đoàn pháo binh riêng với tám khẩu HM-2 105 mm và bốn khẩu HM-3 155 mm với trận địa chính bố trí trong trung tâm thị xã.[11]

Các đơn vị tuyến sau

Cũng như trong Chiến dịch Nguyễn Huệ, các lực lượng mạnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong đội hình Quân đoàn III có thể tăng phái cho quân phòng thủ tại Phước Long gồm các sư đoàn bộ binh 5, 18 và 25 trong đó có lữ đoàn thiết giáp số 2 và 7 thiết đoàn khác được bố trí từ Long An đến Biên Hòa thành một vòng cung xung quanh Sài Gòn từ ba hướng Bắc, Đông và Tây. Giữ cửa ngõ vào tiểu khu Phước Long chỉ có Liên đoàn biệt động quân số 31 đóng tại Chơn Thành, cách Phước Bình hơn 70 km đường bộ. Đơn vị lớn hơn có khả năng tiếp cận giải tỏa cho Phước Long nhanh nhất khi bị tấn công là sư đoàn 18 đóng ở Biên Hòa. Gần hơn nữa có sư đoàn 5 ở Bến Cát trong đó có một chiến đoàn đóng tại An Lộc. Tuy nhiên, đơn vị này phải chịu trách nhiệm phòng thủ hướng đường 13 nên khả năng tăng viện cho Phước Long bị hạn chế. Ngoài ra, Quân đoàn III còn có Liên đoàn biệt kích dù 81 với hơn 100 máy bay trực thăng các loại UH-1A và CH-47 đóng tại Biên Hòa làm lực lượng dự bị cơ động cho các hướng khi bị tấn công. Các máy bay phản lực tiêm kích - oanh tạc của các sư đoàn không quân số 3 và số 5 tại các sân bay Tân Sơn Nhất và Biên Hòa có thể yểm hộ cho các lực lượng phòng thủ ở Phước Long chỉ sau hơn chục phút bay.[12]